Thứ Tư, 8 tháng 1, 2014
TÂY NGUYÊN HUYỀN THOẠI
Đôi chân trần
Cập nhật lúc 17:01, Thứ Tư, 08/01/2014 (GMT+7)
“Một mình lang thang trên đất này. Theo bước chân cha ông từng ngày. Một mình qua sông qua núi đồi. Tìm mặt trời và tìm lời ru ngàn đời…”
(Lời bài hát “Đi tìm lời ru mặt trời” của Y Phôn K’So).
1. Ở Tây Nguyên có ba đỉnh núi cao ngất, sừng sững, choãi chân vững chãi ở ba góc trời: Ngok Linh phía bắc, Cư Yang Sin phía tây và Bi Đúp phía nam. Ba đỉnh núi như những nóc nhà chở che miền cao phía tây tổ quốc. Những đỉnh núi ngàn năm mây phủ ấy, vừa xa lạ, thách thức lại vừa gần gũi, thân thuộc. Xa, vì không dễ mấy ai có thể đặt chân tới đỉnh. Gần gũi và thân thuộc vì người Tây Nguyên từ khi đôi mắt biết nhìn ngước lên đã trông thấy những đỉnh núi thiêng vời vợi trước mặt. Giống như người đồng bằng đi xa nhớ da diết cánh đồng, người cao nguyên rời buôn làng là hồn lại ngóng về với núi. Cũng như người miệt biển luôn khát khao chinh phục đại dương, người miền rừng cũng nuôi trong mình ngọn lửa khao khát một lần bước chân tới cổng trời. Con cháu của tù trưởng Đam San huyền thoại từ lúc rời bầu vú mẹ đã ao ước một lần đặt bàn chân trần lên những đỉnh núi hoang sơ, hùng vĩ ấy và cất tiếng hú dài lan tỏa thanh âm ra suốt những triền thung lũng tít tắp xa mờ…
Trong hỗn mang huyền tích, trong triết lý sơ khai, những tộc người trên núi đỏ rừng xanh không hiểu rõ lắm là vũ trụ được sinh thành từ đâu, nhưng có hai trong những yếu tố cấu thành nên vật chất trong ý niệm của họ là Nước và Lửa. Thần linh là những gì gần gũi. Những vật thiêng luôn hiện hữu trên mỗi bước chân. Đất thiêng, rừng thiêng, núi thiêng, sông thiêng, suối thiêng, cây cổ thụ thiêng, hòn đá lớn cũng thiêng. Yàng có mặt nơi nơi. Nhưng, Nước và Lửa là những yếu tố vật chất thiêng liêng mà gần gũi nhất. Bỡi lẽ vậy, các tộc người Tây Nguyên đã tôn vinh hai vị “hoàng đế” của họ - vua Nước và vua Lửa, tức Thủy Xá và Hỏa Xá. Những vị vua không ngai vàng, không lãnh thổ, không bá quan văn võ nhưng là biểu tượng tinh thần, là hình ảnh sống động trong tâm thức thần dân sống giữa rừng già. Nước và Lửa đã hun đúc ý chí, luyện rèn sức mạnh và bồi đắp tâm hồn. Đôi chân trần từ lúc sinh thành đã được ngâm trong dòng nước mát sông Mẹ và sưởi ấm từ ngọn lửa rừng Cha. Nước và Lửa đã trui rèn thân xác cho những người con Tây Nguyên, những con người chỉ có đôi chân trần bám trên mặt đất. Những đôi chân trần cồng kềnh, vạm vỡ. Những đôi chân trần mạnh như hổ, nhanh như báo, dẻo như trăn. Những bước chân sải lên từng thớ đất cao nguyên phóng khoáng và ngang tàng như được nâng bổng bằng đôi cánh của các loài chim núi…
Cao nguyên huyền thoại. Ảnh: BN |
2. Theo tinh thần bất khuất của tù trưởng Đam San từng lên tận cửa nhà trời bắt nữ thần Mặt Trời về làm vợ, những dũng sĩ Tây Nguyên chân trần từng tập hợp sức mạnh thống nhất các bộ tộc. Đáp lời Bok Hồ, noi gương anh hùng Núp, những người con trai con gái Tây Nguyên đầu đội trời, chân đạp đất đã vót chông, gùi đạn, cưỡi voi rùng rùng vượt Trường Sơn ra trận trong sự nghiệp giải phóng quê hương. Những người thợ săn voi Tây Nguyên cũng chỉ đôi chân trần vượt rừng sâu núi cao chinh phục khắp mọi nẻo đại ngàn. Chân trần lên rẫy, lên nương tỉa bắp, trồng cà phê, gieo hạt lúa. Chân trần lội sông bắt cá, vào rừng lấy mật. Chân trần quấn quyện trong vòng xoang, trong ánh lửa, trong nhịp cồng chiêng đắm say, huyễn hoặc. Vồng ngực căng buông thả tự nhiên, vòng lưng uốn khố, chân trần tràn căng sức sống giữa vũ trụ phồn sinh…
Người Tây Nguyên không sợ hãi núi cao, rừng thẳm. Những dòng sông hùng vĩ, những thác cao hung hãn không làm họ chùn bước. Dã thú sơn lâm cũng trở thành bạn bè. Không có gì, chỉ có đôi chân trần và tâm hồn phóng khoáng, chỉ có sức mạnh ẩn tàng và những tích tụ văn hóa ngàn đời mà họ an nhiên, tự tại, hòa hợp cùng thiên nhiên hoang dã. Núi đã nuôi, rừng đã dưỡng, những người con đại ngàn cứ thế lớn lên. Sức mạnh của họ được hấp thụ từ mạch nguồn thiên nhiên bất tận. Thức ăn của người Tây Nguyên nào có gì cao lương mĩ vị? Miếng ngon xứ rừng chỉ là biăp pờrùng (rau), kơnàp (con mối cánh), gòl (đọt mây), kasràt (cá muối chua) hay blơn prièn (quả cà đắng) nấu với con cá suối. Chỉ miếng sáp mật ong và ngụm nước chiết từ rễ cây mà vượt qua vài đỉnh núi bước chân không mỏi, tiếng hú vang xa tới ba buôn, bốn rừng…
Chỉ vậy thôi, mà họ từng sống trên đất này từ cái thuở khỉ đánh đu trêu người, voi đi lững thững bình yên, hổ báo lang thang bìa rừng. Những bắp chân trần của những người đàn ông đóng khố vác xà gạc, những người đàn bà lúi húi mang gùi. Họ cứ đi trên những con đường rừng mòn lối, băng qua những dãy núi điệp trùng. Người Bana, người Jarai vấn khố lội qua đầu nguồn sông Ba hùng vĩ. Người Êđê, người Mơnông ngập thân trong dòng K’Rông Ana, K’Rông Anô nghĩa tình rồi xuôi về thảo nguyên Madrăk. Người Châu Mạ, người Kơho ngược dòng Đạ Dâng và thung thăng giữa cao nguyên Lang Bian bát ngát dã quỳ vàng. Người Churu theo những lối mòn xuyên giữa rừng già tìm hướng về phía biển.
Những bước chân trần. Họ mang theo tâm hồn mình những giấc mơ phiêu bồng, những huyền thoại bất tận về một miền cao nguyên bí ẩn, mênh mang...
3. Ngày buôn làng mở hội. Những bắp chân trần quấn quyện vào nhau, quấn quyện vào ánh lửa, dưới bóng thần linh nguyện cầu cho mùa màng tốt tươi. Ngày gái trai trao vòng cầu hôn, hai cặp chân trần quỳ bên nhau hẹn thề trăm năm cầm sắt trước thần Sông, thần Núi. Người mẹ ôm con trẻ sơ sinh nhúng đôi chân măng tơ vào dòng suối ven rừng trong ngày lễ đặt tên Nhu S’đăn cũng mong cho con lớn lên chân cứng đá mềm. Ngày Pơthi đưa hồn người đồng tộc về với cõi Yàng, những đôi chân trần lại quỳ bên nhau khóc tiễn. Người nằm xuống, rũ bỏ tất cả những mùa nhớ, tháng quên, chỉ mang theo đôi chân trần về miền xa thẳm…
Như Y Moan nằm đó. Người nghệ sĩ của đại ngàn mà ngọn lửa đam mê như bốc cháy cả cao nguyên không tắt nhưng thân xác của anh đã yên nghỉ dưới lòng đất bazan. Anh trả lại cho đời tất cả. Gửi lại giọng hát, gửi lại những vinh quang. Anh lặng lẽ nhón bước chân trần về với cõi Yàng, nơi đầu nguồn K’Rông Ana, nơi giao dòng K’Rông Ano. Trước ngôi mộ Y Moan, tôi lặng lẽ nghiêng mình và như thấy đó đôi chân trần của anh thả lỏng lơi trên đất. Đôi chân ấy từng thoăn thoắt bám theo thân khố của cha lên rừng săn thú. Đôi chân ấy từng chìu níu theo tà váy mẹ lên rẫy hái quả. Chân khỏa nước dịu dàng cùng người con gái ngực trần lội xuống bến tắm. Chân nhịp theo tiếng hót chim Phí, chim Tia Chôm. Và tiếng hát, tiếng hát thì vang vọng, thẳm sâu, ma lực, huyễn hoặc. Nhưng bây giờ thì Y Moan nằm đó. Đôi chân trần của anh vĩnh viễn dừng bước. Người đàn ông Ê Đê sống một cuộc đời đam mê đã ngủ yên dưới lớp đất bazan. Tôi lặng lẽ bái vọng hương hồn Y Moan và nhẩm theo tiếng hát mà anh từng da diết cất lên qua giai điệu của người nhạc sĩ đồng tộc Y Phôn K’So: Ôi, ngày tháng, đôi vai gầy/ run run tựa vào hàng cây/ Ôi thời gian, hãy quên đi/ đôi chân cồng kềnh/ cha đi giữa rừng hoang vu/ Lưng cha thì đội nắng gầy/ ôi tóc bạc tựa trăng soi/cả cuộc đời và cả một đời/đôi chân trần…
Nghẹn ngào. Da diết. Hoang hoải. Phiêu linh…Tiếng hát Y Moan cất lên. Những giai điệu dân ca Ay ray, Kơ ứt, Lả lông, Jalyau cất lên. Tôi như được tắm mình trong không gian đẫm ánh trăng xanh rừng cao nguyên. Như được nô giỡn cùng đàn thú hoang giữa thảo nguyên ngập tràn nắng gió. Như được khỏa lên gương mặt nhuốm bụi đất của mình những tia nước mát lạnh của dòng suối trong giữa hoang vu đại ngàn và ngả mình xuống bãi cỏ dịu êm. Xung quanh tôi là những bắp chân trần, những bước chân trần trong vòng xoang rực cháy. Ở ngoài kia cao nguyên trùng trùng những trận gió hoang dại. Ai đó ngậm đọt lúa làm khèn Đinh Puốt. Tiếng lục lạc trâu gõ đều trong đêm. Tiếng đàn tre đẩy nước ngoài bến sông kẽo kẹt. Tiếng chim gọi bầy khắc khoải bay về núi xa. Tiếng con nai, con hươu tìm nhau tha thiết.
* * *
Bây giờ đang là tháng giêng. Mùa này Tây Nguyên, hoa dã quỳ vẫn tràn nắng vàng khắp núi đồi, thung lũng. Mùa lễ hội, mùa nhớ, mùa quên, mùa xoang, mùa hát. Mùa lãng du nồng nàn. Mùa da diết buồn vui trong lành. Trong những đôi mắt màu nâu như ánh lên giấc mơ về những thuở ngày xưa, thưở những bước chân trần đầu tiên cha ông khai mở đất cao nguyên. Cho hôm nay, những lớp lớp chân trần quấn quyện bên nhau như nhiều cây thành rừng, trùng điệp rừng, thăm thẳm rừng thành đại ngàn hùng vĩ...
Tùy bút: UÔNG THÁI BIỂU
SỨC KHỎE VỀ PHỔI
Thuyên tắc phổi và những vấn đề điều trị
Thuyên tắc phổi là một biến chứng nguy hiểm của thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch. Bệnh gặp khó khăn trong chẩn đoán do triệu chứng lâm sàng không điển hình, dễ nhầm lẫn với những nguyên nhân khác, các xét nghiệm sinh học không thể xác minh, cần phải nhờ đến chẩn đoán hình ảnh kỹ thuật cao mới xác định được.
Những ai có nguy cơ thuyên tắc phổi?
Thuyên tắc phổi xuất hiện khi có một vật gây tắc nghẽn làm cản trở dòng máu chảy qua động mạch phổi. 90% trường hợp thuyên tắc phổi xuất phát từ cục máu đông hình thành trong bệnh huyết khối tĩnh mạch sâu. Khoảng 80% các cục máu đông này sẽ tự tan biến mà không gây tắc mạch phổi, 20% còn lại có thể di chuyển đến tĩnh mạch chậu đùi và bị vỡ, cho phép một cục máu đông di chuyển lên tĩnh mạch chủ dưới và sau cùng lên phổi sẽ gây ra sự tắc nghẽn tại đó.
Nguy cơ phát triển thuyên tắc phổi tăng theo tuổi. Những người có nguy cơ cao là những người bị huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc có tiền sử thuyên tắc phổi. Đôi khi, có một số triệu chứng dễ thấy ở đầu chi - biểu hiện của huyết khối tĩnh mạch sâu như: sưng; đau hoặc tăng cảm giác; đầu chi ấm hơn; da đỏ, xanh hoặc nhợt nhạt. Một số trường hợp thuyên tắc phổi nặng có thể gây shock, bất tỉnh, ngừng tim hay tử vong.
Điều trị thế nào?
Điều trị thuyên tắc phổi nhằm mục đích làm tan cục máu đông, ngăn cục máu đông phát triển to hơn và ngăn cục máu đông mới tạo thành. Bước đầu tiên trong điều trị thuyên tắc phổi là điều trị shock và cung cấp ôxy. Các thuốc chống đông máu như heparin, wafarin được sử dụng để ngăn sự tạo thành cục máu đông. Đặc biệt hiện nay hay sử dụng các heparin trọng lượng phân tử thấp như enoxaparin để thay thế cho heparin vì chúng có hiệu quả điều trị tương đương heparin, tiện dụng hơn (chỉ cần điều chỉnh liều theo cân nặng, không cần theo dõi aPTT) và an toàn với bệnh nhân (ít nguy cơ giảm tiểu cầu).
Các thuốc tiêu sợi huyết (làm tan cục máu đông đã hình thành) cũng có thể được sử dụng, nhưng chúng gây ra nguy cơ chảy máu cao cho bệnh nhân nên thường chỉ được dùng trong những trường hợp nặng.
Ngoài ra, những bệnh nhân yếu và huyết áp tụt có thể dùng thêm thuốc như dopamin để tăng huyết áp.
Phòng bệnh
Do không có hoặc các triệu chứng lâm sàng không đặc trưng, các xét nghiệm cũng gặp phải những khó khăn trong chẩn đoán thuyên tắc phổi, vì vậy, việc đánh giá mức độ nguy cơ bệnh nhân đang có, từ đó biết được xác suất mắc bệnh để có biện pháp dự phòng là cách tiếp cận tốt nhất.
Bệnh nhân có nguy cơ cao có nhiều cách để phòng bệnh như dùng các thuốc chống đông máu (heparin, enoxaparin, wafarin), sử dụng tất băng nịt giảm lượng máu ứ đọng tránh tạo thành cục máu đông.
Ngoài ra, có những cách để giảm nguy cơ thuyên tắc huyết khối như: rèn luyện, luyện tập thể dục thường xuyên; không nên nằm lâu ngày sau khi phẫu thuật, sau tai biến mạch máu não; sản phụ cần đi lại, nằm đúng tư thế để tránh cho thai không gây chèn ép tĩnh mạch chậu.
90% thuyên tắc phổi bắt nguồn từ huyết khối tĩnh mạch sâu, do vậy nên đến bác sĩ chuyên khoa khám nếu thấy dấu hiệu sưng to bất thường một chân, nặng chân, đau chân, cũng có thể đến bệnh viện lớn để làm siêu âm Doppler nếu có điều kiện.
Thuyên tắc phổi là một biến chứng nguy hiểm của thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch. Bệnh gặp khó khăn trong chẩn đoán do triệu chứng lâm sàng không điển hình, dễ nhầm lẫn với những nguyên nhân khác, các xét nghiệm sinh học không thể xác minh, cần phải nhờ đến chẩn đoán hình ảnh kỹ thuật cao mới xác định được.
Những ai có nguy cơ thuyên tắc phổi?
Thuyên tắc phổi xuất hiện khi có một vật gây tắc nghẽn làm cản trở dòng máu chảy qua động mạch phổi. 90% trường hợp thuyên tắc phổi xuất phát từ cục máu đông hình thành trong bệnh huyết khối tĩnh mạch sâu. Khoảng 80% các cục máu đông này sẽ tự tan biến mà không gây tắc mạch phổi, 20% còn lại có thể di chuyển đến tĩnh mạch chậu đùi và bị vỡ, cho phép một cục máu đông di chuyển lên tĩnh mạch chủ dưới và sau cùng lên phổi sẽ gây ra sự tắc nghẽn tại đó.
Nguy cơ phát triển thuyên tắc phổi tăng theo tuổi. Những người có nguy cơ cao là những người bị huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc có tiền sử thuyên tắc phổi. Đôi khi, có một số triệu chứng dễ thấy ở đầu chi - biểu hiện của huyết khối tĩnh mạch sâu như: sưng; đau hoặc tăng cảm giác; đầu chi ấm hơn; da đỏ, xanh hoặc nhợt nhạt. Một số trường hợp thuyên tắc phổi nặng có thể gây shock, bất tỉnh, ngừng tim hay tử vong.
Điều trị thế nào?
Điều trị thuyên tắc phổi nhằm mục đích làm tan cục máu đông, ngăn cục máu đông phát triển to hơn và ngăn cục máu đông mới tạo thành. Bước đầu tiên trong điều trị thuyên tắc phổi là điều trị shock và cung cấp ôxy. Các thuốc chống đông máu như heparin, wafarin được sử dụng để ngăn sự tạo thành cục máu đông. Đặc biệt hiện nay hay sử dụng các heparin trọng lượng phân tử thấp như enoxaparin để thay thế cho heparin vì chúng có hiệu quả điều trị tương đương heparin, tiện dụng hơn (chỉ cần điều chỉnh liều theo cân nặng, không cần theo dõi aPTT) và an toàn với bệnh nhân (ít nguy cơ giảm tiểu cầu).
Các thuốc tiêu sợi huyết (làm tan cục máu đông đã hình thành) cũng có thể được sử dụng, nhưng chúng gây ra nguy cơ chảy máu cao cho bệnh nhân nên thường chỉ được dùng trong những trường hợp nặng.
Ngoài ra, những bệnh nhân yếu và huyết áp tụt có thể dùng thêm thuốc như dopamin để tăng huyết áp.
Phòng bệnh
Do không có hoặc các triệu chứng lâm sàng không đặc trưng, các xét nghiệm cũng gặp phải những khó khăn trong chẩn đoán thuyên tắc phổi, vì vậy, việc đánh giá mức độ nguy cơ bệnh nhân đang có, từ đó biết được xác suất mắc bệnh để có biện pháp dự phòng là cách tiếp cận tốt nhất.
Bệnh nhân có nguy cơ cao có nhiều cách để phòng bệnh như dùng các thuốc chống đông máu (heparin, enoxaparin, wafarin), sử dụng tất băng nịt giảm lượng máu ứ đọng tránh tạo thành cục máu đông.
Ngoài ra, có những cách để giảm nguy cơ thuyên tắc huyết khối như: rèn luyện, luyện tập thể dục thường xuyên; không nên nằm lâu ngày sau khi phẫu thuật, sau tai biến mạch máu não; sản phụ cần đi lại, nằm đúng tư thế để tránh cho thai không gây chèn ép tĩnh mạch chậu.
90% thuyên tắc phổi bắt nguồn từ huyết khối tĩnh mạch sâu, do vậy nên đến bác sĩ chuyên khoa khám nếu thấy dấu hiệu sưng to bất thường một chân, nặng chân, đau chân, cũng có thể đến bệnh viện lớn để làm siêu âm Doppler nếu có điều kiện.
DS. Ngô Trang
ĐỀ PHÒNG KHI DÙNG THUỐC TRÁNH THAI
Đề phòng nám da, sạm da do dùng thuốc tránh thai
Thuốc tránh thai được nhiều chị em sử dụng. Nhiều trường hợp đã thắc mắc về việc bị nám da do dùng thuốc tránh thai. Vậy thực chất của việc này là gì?
Nám da là do sự gia tăng hắc sắc tố melanin trên da. Bệnh thường gặp ở phụ nữ do tác động của nhiều yếu tố. Nguyên nhân thông thường do rối loạn nội tiết trong thời kỳ mang thai hoặc ở phụ nữ tiền mãn kinh, do lạm dụng mỹ phẩm, tiếp xúc trực tiếp với tia tử ngoại... và trong đó có cả yếu tố sử dụng thuốc tránh thai hàng ngày.
Thuốc tránh thai sẽ làm thay đổi hormon trong cơ thể sau khi uống, có thể gây ra tác dụng phụ là nhức đầu, nám da, tăng cân, buồn nôn... Tuy nhiên, những tác dụng phụ này không phải lúc nào cũng xảy ra với tất cả mọi người. Chỉ những người có cơ địa không thích hợp với thuốc tránh thai mới có thể gặp hiện tượng nám da, sạm da, tàn nhang... sau khi uống thuốc.
Tình trạng bị nám da, sạm da sau khi dùng thuốc ngừa thai xảy ra trên một số người dùng loại thuốc ngừa thai chứa progestins thế hệ cũ. Trong nhiều trường hợp, các đốm nám sẽ xuất hiện sớm, sau khi dùng thuốc chừng 2 - 3 tháng và có thể không phát triển sau một thời gian dùng thuốc. Tuy nhiên, khi đốm nám tiếp xúc với tia tử ngoại trong ánh nắng mặt trời, chúng sẽ đậm lên. Progestins trong thuốc còn có tác dụng giữ nước cho cơ thể nên gây ra tình trạng tăng cân.
Để phòng ngừa nám da, sạm da, chị em cần tránh để da (đặc biệt là vùng da bị nám, sạm) tiếp xúc ánh nắng. Nên dùng các loại kem chống nắng hay các cách che chắn để bảo vệ da khỏi bị nám. Vì vậy, khi thấy có đốm nám, sạm do dùng thuốc tránh thai xuất hiện thì bạn nên tạm dừng uống thuốc và sử dụng một biện pháp tránh thai an toàn khác như đặt vòng, dùng bao cao su. Việc sử dụng thuốc tránh thai luôn cần phải có sự chỉ định của bác sĩ, không dùng tùy tiện tránh gây hại cho sức khỏe.
Thuốc tránh thai được nhiều chị em sử dụng. Nhiều trường hợp đã thắc mắc về việc bị nám da do dùng thuốc tránh thai. Vậy thực chất của việc này là gì?
Nám da là do sự gia tăng hắc sắc tố melanin trên da. Bệnh thường gặp ở phụ nữ do tác động của nhiều yếu tố. Nguyên nhân thông thường do rối loạn nội tiết trong thời kỳ mang thai hoặc ở phụ nữ tiền mãn kinh, do lạm dụng mỹ phẩm, tiếp xúc trực tiếp với tia tử ngoại... và trong đó có cả yếu tố sử dụng thuốc tránh thai hàng ngày.
Thuốc tránh thai sẽ làm thay đổi hormon trong cơ thể sau khi uống, có thể gây ra tác dụng phụ là nhức đầu, nám da, tăng cân, buồn nôn... Tuy nhiên, những tác dụng phụ này không phải lúc nào cũng xảy ra với tất cả mọi người. Chỉ những người có cơ địa không thích hợp với thuốc tránh thai mới có thể gặp hiện tượng nám da, sạm da, tàn nhang... sau khi uống thuốc.
Tình trạng bị nám da, sạm da sau khi dùng thuốc ngừa thai xảy ra trên một số người dùng loại thuốc ngừa thai chứa progestins thế hệ cũ. Trong nhiều trường hợp, các đốm nám sẽ xuất hiện sớm, sau khi dùng thuốc chừng 2 - 3 tháng và có thể không phát triển sau một thời gian dùng thuốc. Tuy nhiên, khi đốm nám tiếp xúc với tia tử ngoại trong ánh nắng mặt trời, chúng sẽ đậm lên. Progestins trong thuốc còn có tác dụng giữ nước cho cơ thể nên gây ra tình trạng tăng cân.
Để phòng ngừa nám da, sạm da, chị em cần tránh để da (đặc biệt là vùng da bị nám, sạm) tiếp xúc ánh nắng. Nên dùng các loại kem chống nắng hay các cách che chắn để bảo vệ da khỏi bị nám. Vì vậy, khi thấy có đốm nám, sạm do dùng thuốc tránh thai xuất hiện thì bạn nên tạm dừng uống thuốc và sử dụng một biện pháp tránh thai an toàn khác như đặt vòng, dùng bao cao su. Việc sử dụng thuốc tránh thai luôn cần phải có sự chỉ định của bác sĩ, không dùng tùy tiện tránh gây hại cho sức khỏe.
DS. Thanh Hoài
http://suckhoedoisong.vn/dung-thuoc-nen-biet/de-phong-nam-da-sam-da-do-dung-thuoc-tranh-thai-20140104002955489.htm
CÁCH SỬ DỤNG THUỐC
Cách sử dụng thuốc Berberin
Berberin là hoạt chất được chiết từ cây hoàng đằng (còn có tên vàng đắng, hoàng liên, tên khoa học là Coptis teeta)… (là loại cây dây leo thân gỗ có phân nhánh, mọc hoang ở nhiều nơi). Trong hoàng đằng có nhiều alcaloid dẫn xuất của izoquinolein, chủ yếu là berberin tỷ lệ từ 1,5 đến 2-3%.
Berberin là hoạt chất được chiết từ cây hoàng đằng (còn có tên vàng đắng, hoàng liên, tên khoa học là Coptis teeta)… (là loại cây dây leo thân gỗ có phân nhánh, mọc hoang ở nhiều nơi). Trong hoàng đằng có nhiều alcaloid dẫn xuất của izoquinolein, chủ yếu là berberin tỷ lệ từ 1,5 đến 2-3%.
Các tác dụng chủ yếu của berberin là chống tiêu chảy do vi khuẩn, ký sinh trùng đường ruột. Berberin còn được bào chế thành thuốc nhỏ mắt điều trị viêm kết mạc, đau mắt đỏ do kích thích bên ngoài như (gió, nắng, lạnh, bụi, khói...) và điều trị bệnh mắt hột. Ngoài ra berberin cũng có thể giúp ngăn ngừa nhiễm nấm, bội nhiễm nấm và còn có tác dụng chống lại tác hại của vi khuẩn tả và E.coli ngoại độc tố bền với nhiệt.
Berberin có một ưu thế là khi dùng điều trị các nhiễm trùng đường ruột berberin sẽ không ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường của hệ vi khuẩn có ích ở ruột. Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh, khi dùng một số thuốc kháng sinh nếu phối hợp với berberin sẽ hạn chế được tác dụng không mong muốn gây ra bởi các thuốc kháng sinh đối với hệ vi sinh vật đường ruột.
Khám và phát thuốc cho người dân vùng lũ tại huyện Tuy An - Phú Yên.
Ảnh: Ngọc Thắng
|
Berberin rất lành tính, rất hiếm gặp trường hợp dùng mà bị dị ứng. Tuy nhiên đối với những người quá mẫn cảm với thuốc và phụ nữ có thai thì không dùng vì berberin có khả năng gây co bóp tử cung làm ảnh hưởng tới thai nhi.
Hiện nay, nhiều hãng dược sản xuất berberin với tên khác nhau như: berberine sulfate hoặc chlorhydrate với các biệt dược là thuốc có hoạt tính kháng sinh, chống viêm với dạng viên nén 10 mg và 50mg. Thời gian dùng tùy thuộc vào tình trạng bệnh, tình trạng nhiễm khuẩn hay nhiễm amíp, sẽ do bác sĩ điều trị quyết định. Khi uống berberin, nếu dùng thêm thuốc khác, cần uống cách xa 1 - 2 giờ (kể cả thuốc đông dược và thảo dược).
Đặc biệt lưu ý, chỉ nên sử dụng thuốc chứa berberin do các xí nghiệp dược phẩm sản xuất. Không nên dùng dược thảo vì có thể nhầm lẫn, ngoại trừ dược thảo ấy được các vị lương y cung cấp, hướng dẫn sử dụng. Tránh sự nhầm lẫn rất nguy hiểm cho tính mạng.
Bác sĩ Nguyễn Hữu
sức khỏe với vitamin
Nhu cầu vitamin của cơ thể con người
Hàng ngày, con người muốn, tồn tại và phát triển thì phải hấp thu các chất dinh dưỡng cần thiết vào cơ thể qua đường tiêu hóa. Ngoài các chất sinh năng lượng như: protid, lipide, glucid và các khoáng chất, các loại vitamin cũng rất cần cho cơ thể. Vậy vitamin hấp thu như thế nào để bảo đảm nhu cầu?
Đã từ lâu, các nhà khoa học đã chia vitamin thành hai nhóm: vitamin tan trong nước và vitamin tan trong chất béo. Các loại vitamin tan trong nước khi hấp thu với số lượng nhiều và thừa đều có thể dễ dàng bài tiết theo đường nước tiểu nên ít có nguy cơ đe dọa tình trạng nhiễm độc vitamin. Trái lại, các loại vitamin tan trong chất béo nếu hấp thu vào cơ thể quá nhiều thì không thể đào thải theo đường nước tiểu được, lượng dư thừa đều được dự trữ lại trong các mô mỡ và gan. Để bảo đảm đủ chất dinh dưỡng hàng ngày, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến nghị về nhu cầu sử dụng của một số vitamin quan trọng như: A, D3, B1, B2, C, B12, kể cả acid folic.
Vitamin A
Vitamin A còn gọi là chất retinol, chúng có nhiều nhiệm vụ quan trọng đối với cơ thể con người nhưng trước hết đảm nhận vai trò của thị giác. Aldehyd của retinol là một thành phần thiết yếu của sắc tố võng mạc mắt rodopsin. Khi gặp ánh sáng, sắc tố này mất màu và quá trình này kích thích các tế bào que của võng mạc mắt để giúp nhìn thấy trong ánh sáng yếu.
Ngoài ra, vitamin A rất cần thiết để giữ gìn sự toàn vẹn của lớp tế bào biểu mô bao phủ bề mặt da và niêm mạc các khoang trong cơ thể. Nếu thiếu vitamin A sẽ gây nên tình trạng khô da, tổn thương ở màng tiếp hợp, khi hiện tượng này lan đến giác mạc mắt sẽ làm cho thị lực bị ảnh hưởng và gây mềm giác mạc. Thiếu vitamin A cũng làm giảm tốc độ tăng trưởng, giảm sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật và tăng tỉ lệ tử vong ở trẻ em.
Vitamin A hiện diện trong các loại thức ăn có nguồn gốc động vật, cơ thể con người có thể tạo thành vitamin A từ caroten là một loại sắc tố khá phổ biến trong các loại thức ăn có nguồn gốc từ thực vật, trong đó-caroten là loại quan trọng nhất.
Nhu cầu vitamin ở trẻ em là 300mg và người lớn là 750mg.
Vitamin D3
Vitamin D3 còn gọi là chất colecalciferol với vai trò chính là tạo điều kiện thuận lợi cho sự hấp thu canxi ở tá tràng
Dầu cá là nguồn cung cấp vitamin D khá dồi dào; ngoài ra chúng còn hiện diện trong các loại thực phẩm như: gan, trứng, bơ. Các loại thức ăn có nguồn gốc thực vật hoàn toàn không có vitamin D. Nguồn vitamin D quan trọng cần cho cơ thể là quá trình nội tổng hợp ở trong da dưới tác dụng của tia tử ngoại ánh sáng mặt trời. Nhu cầu được khuyến cáo cần hấp thu lượng vitamin D3 khoảng 10µg đối với trẻ em, tương ứng với 400 đơn vị quốc tế UI. Ở người lớn đã trưởng thành nếu điều kiện sống, sinh hoạt, lao động thiếu nguồn ánh sáng mặt trời phải nên bổ sung vitamin D3 với 100 đơn vị quốc tế mỗi ngày.
Vitamin B1
Vitamin B1 còn được gọi là thiamin, chúng hiện diện trong các mô động vật, thực vật và là yếu tố cần thiết để sử dụng chất glucide; vì vậy nên tất cả thức ăn đều có một hàm lượng chất thiamin nhưng ít. Các loại hạt cần dự trữ chất thiamin cho quá trình nẩy mầm nên ngũ cốc và các hạt họ đậu là những nguồn thiamin khá phong phú.
Nhu cầu thiamin cần đáp ứng cho cơ thể phải đạt 0,40mg/1.000kcal; khi lượng này thấp hơn 0,25mg/1.000kcal thì sẽ gây nên bệnh tê phù Beriberi. Trên thực tế, nhu cầu vitamin B1 hay thiamin sẽ được đáp ứng thỏa mãn nhu cầu cho con người khi các loại lương thực cơ bản không xay xát trắng quá, chế độ ăn có nhiều hạt họ đậu. Trái lại, tình trạng thiếu vitamin B1 hay thiamin sẽ xảy ra khi sử dụng nhiều loại lương thực xay xát trắng, đường ngọt và rượu.
Vitamin B2
Vitamin B2 còn được gọi là riboflavin cùng nhóm với acid nicotinic, chúng giữ vai trò chủ yếu trong các phản ứng oxy hóa ở tế bào trong tất cả các mô của cơ thể.
Riboflavin hiện diện phổ biến trong các loại thức ăn nhưng có nhiều nhất trong thức ăn động vật, sữa, rau, đậu, bia. Đồng thời những hạt ngũ cốc toàn phần cũng có nguồn vitamin B2 tốt nhưng chúng bị giảm đi nhiều qua quá trình xay xát. Theo WHO, nhu cầu cần thiết của vitamin B2 là 0,55mg/1.000kcal.
Vitamin C
Vitamin C còn được gọi là acid ascorbic, chúng tham gia vào các phản ứng oxy hóa khử. Đây là yếu tố cần thiết cho sự tổng hợp chất collagen là một chất gian bào ở các thành mạch máu, mô liên kết, xương, răng. Khi cơ thể thiếu vitamin C, người bệnh có những biểu hiện như xuất huyết, các vết thương lâu thành sẹo.
Vitamin C hiện diện nhiều trong các loại quả chín. Rau xanh cũng có nhiều vitamin C nhưng bị hao hụt khá lớn qua quá trình được nấu nướng. Đồng thời khoai tây, khoai lang cũng là nguồn cung cấp vitamin C rất tốt. Lượng vitamin C cần thiết hàng ngày cho người lớn, thiếu niên, kể cả trẻ em là 30mg/ngày.
Vitamin B12
Vitamin B12 còn được gọi là cyanocobalamin. Khác với nhiều loại vitamin khác, trong cơ thể con người các loại thực vật cao cấp không tổng hợp được vitamin B12, chúng chỉ có trong thức ăn động vật mà nguồn phong phú nhất là gan. Trước khi các nhà khoa học phát hiện ra vitamin B12, bệnh thiếu máu ác tính là một bệnh hiểm nghèo gây chết người trong vòng từ 2 - 5 năm nhưng sau đó nguyên nhân gây bệnh do thiếu vitamin B12 đã được tìm ra nên bệnh được khống chế hiệu quả. Tình trạng thiếu vitamin B12 thường gặp ở những người ăn các loại thức ăn thực vật là chủ yếu hoặc ở những người ăn chay thường xuyên. Nhu cầu vitamin B12 của người bình thường là 2µg/ngày.
Acid folic
Khi thiếu chất acid này sẽ gây ra hiện tượng thiếu máu dinh dưỡng đại hồng cầu, thường gặp ở các phụ nữ có thai. Chất acid folic và các loại folat thường hiện diện nhiều trong các loại rau có lá. Nhu cầu khuyến cáo cần thiết cho người trưởng thành đối với acid folic là 200µg/ngày
Hàng ngày, con người muốn, tồn tại và phát triển thì phải hấp thu các chất dinh dưỡng cần thiết vào cơ thể qua đường tiêu hóa. Ngoài các chất sinh năng lượng như: protid, lipide, glucid và các khoáng chất, các loại vitamin cũng rất cần cho cơ thể. Vậy vitamin hấp thu như thế nào để bảo đảm nhu cầu?
Đã từ lâu, các nhà khoa học đã chia vitamin thành hai nhóm: vitamin tan trong nước và vitamin tan trong chất béo. Các loại vitamin tan trong nước khi hấp thu với số lượng nhiều và thừa đều có thể dễ dàng bài tiết theo đường nước tiểu nên ít có nguy cơ đe dọa tình trạng nhiễm độc vitamin. Trái lại, các loại vitamin tan trong chất béo nếu hấp thu vào cơ thể quá nhiều thì không thể đào thải theo đường nước tiểu được, lượng dư thừa đều được dự trữ lại trong các mô mỡ và gan. Để bảo đảm đủ chất dinh dưỡng hàng ngày, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến nghị về nhu cầu sử dụng của một số vitamin quan trọng như: A, D3, B1, B2, C, B12, kể cả acid folic.
Vitamin A
Vitamin A còn gọi là chất retinol, chúng có nhiều nhiệm vụ quan trọng đối với cơ thể con người nhưng trước hết đảm nhận vai trò của thị giác. Aldehyd của retinol là một thành phần thiết yếu của sắc tố võng mạc mắt rodopsin. Khi gặp ánh sáng, sắc tố này mất màu và quá trình này kích thích các tế bào que của võng mạc mắt để giúp nhìn thấy trong ánh sáng yếu.
Ngoài ra, vitamin A rất cần thiết để giữ gìn sự toàn vẹn của lớp tế bào biểu mô bao phủ bề mặt da và niêm mạc các khoang trong cơ thể. Nếu thiếu vitamin A sẽ gây nên tình trạng khô da, tổn thương ở màng tiếp hợp, khi hiện tượng này lan đến giác mạc mắt sẽ làm cho thị lực bị ảnh hưởng và gây mềm giác mạc. Thiếu vitamin A cũng làm giảm tốc độ tăng trưởng, giảm sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật và tăng tỉ lệ tử vong ở trẻ em.
Vitamin A hiện diện trong các loại thức ăn có nguồn gốc động vật, cơ thể con người có thể tạo thành vitamin A từ caroten là một loại sắc tố khá phổ biến trong các loại thức ăn có nguồn gốc từ thực vật, trong đó-caroten là loại quan trọng nhất.
Nhu cầu vitamin ở trẻ em là 300mg và người lớn là 750mg.
Vitamin D3
Vitamin D3 còn gọi là chất colecalciferol với vai trò chính là tạo điều kiện thuận lợi cho sự hấp thu canxi ở tá tràng
Dầu cá là nguồn cung cấp vitamin D khá dồi dào; ngoài ra chúng còn hiện diện trong các loại thực phẩm như: gan, trứng, bơ. Các loại thức ăn có nguồn gốc thực vật hoàn toàn không có vitamin D. Nguồn vitamin D quan trọng cần cho cơ thể là quá trình nội tổng hợp ở trong da dưới tác dụng của tia tử ngoại ánh sáng mặt trời. Nhu cầu được khuyến cáo cần hấp thu lượng vitamin D3 khoảng 10µg đối với trẻ em, tương ứng với 400 đơn vị quốc tế UI. Ở người lớn đã trưởng thành nếu điều kiện sống, sinh hoạt, lao động thiếu nguồn ánh sáng mặt trời phải nên bổ sung vitamin D3 với 100 đơn vị quốc tế mỗi ngày.
Vitamin B1
Vitamin B1 còn được gọi là thiamin, chúng hiện diện trong các mô động vật, thực vật và là yếu tố cần thiết để sử dụng chất glucide; vì vậy nên tất cả thức ăn đều có một hàm lượng chất thiamin nhưng ít. Các loại hạt cần dự trữ chất thiamin cho quá trình nẩy mầm nên ngũ cốc và các hạt họ đậu là những nguồn thiamin khá phong phú.
Nhu cầu thiamin cần đáp ứng cho cơ thể phải đạt 0,40mg/1.000kcal; khi lượng này thấp hơn 0,25mg/1.000kcal thì sẽ gây nên bệnh tê phù Beriberi. Trên thực tế, nhu cầu vitamin B1 hay thiamin sẽ được đáp ứng thỏa mãn nhu cầu cho con người khi các loại lương thực cơ bản không xay xát trắng quá, chế độ ăn có nhiều hạt họ đậu. Trái lại, tình trạng thiếu vitamin B1 hay thiamin sẽ xảy ra khi sử dụng nhiều loại lương thực xay xát trắng, đường ngọt và rượu.
Vitamin B2
Vitamin B2 còn được gọi là riboflavin cùng nhóm với acid nicotinic, chúng giữ vai trò chủ yếu trong các phản ứng oxy hóa ở tế bào trong tất cả các mô của cơ thể.
Riboflavin hiện diện phổ biến trong các loại thức ăn nhưng có nhiều nhất trong thức ăn động vật, sữa, rau, đậu, bia. Đồng thời những hạt ngũ cốc toàn phần cũng có nguồn vitamin B2 tốt nhưng chúng bị giảm đi nhiều qua quá trình xay xát. Theo WHO, nhu cầu cần thiết của vitamin B2 là 0,55mg/1.000kcal.
Vitamin C
Vitamin C còn được gọi là acid ascorbic, chúng tham gia vào các phản ứng oxy hóa khử. Đây là yếu tố cần thiết cho sự tổng hợp chất collagen là một chất gian bào ở các thành mạch máu, mô liên kết, xương, răng. Khi cơ thể thiếu vitamin C, người bệnh có những biểu hiện như xuất huyết, các vết thương lâu thành sẹo.
Vitamin C hiện diện nhiều trong các loại quả chín. Rau xanh cũng có nhiều vitamin C nhưng bị hao hụt khá lớn qua quá trình được nấu nướng. Đồng thời khoai tây, khoai lang cũng là nguồn cung cấp vitamin C rất tốt. Lượng vitamin C cần thiết hàng ngày cho người lớn, thiếu niên, kể cả trẻ em là 30mg/ngày.
Vitamin B12
Vitamin B12 còn được gọi là cyanocobalamin. Khác với nhiều loại vitamin khác, trong cơ thể con người các loại thực vật cao cấp không tổng hợp được vitamin B12, chúng chỉ có trong thức ăn động vật mà nguồn phong phú nhất là gan. Trước khi các nhà khoa học phát hiện ra vitamin B12, bệnh thiếu máu ác tính là một bệnh hiểm nghèo gây chết người trong vòng từ 2 - 5 năm nhưng sau đó nguyên nhân gây bệnh do thiếu vitamin B12 đã được tìm ra nên bệnh được khống chế hiệu quả. Tình trạng thiếu vitamin B12 thường gặp ở những người ăn các loại thức ăn thực vật là chủ yếu hoặc ở những người ăn chay thường xuyên. Nhu cầu vitamin B12 của người bình thường là 2µg/ngày.
Acid folic
Khi thiếu chất acid này sẽ gây ra hiện tượng thiếu máu dinh dưỡng đại hồng cầu, thường gặp ở các phụ nữ có thai. Chất acid folic và các loại folat thường hiện diện nhiều trong các loại rau có lá. Nhu cầu khuyến cáo cần thiết cho người trưởng thành đối với acid folic là 200µg/ngày
TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH
SỨC KHỎE
Thận trọng sử dụng thuốc ho cho trẻ
Có nhiều nguyên nhân làm trẻ ho như cảm lạnh, nhiễm vi khuẩn, virut, dị ứng với các vật lạ... Thuốc ho chỉ làm giảm ho tạm thời mà không thể chữa khỏi ho. Chỉ khi trẻ được dùng thuốc điều trị đúng các nguyên nhân gây ho thì mới hết ho. Vì vậy phải khám tìm nguyên nhân để dùng thuốc chữa bệnh đặc hiệu mà không kéo dài việc dùng thuốc ho.
Thuốc ho có thể dùng cho trẻ em
Dextromethorphan: Thuốc thường pha dưới dạng sirô dùng rất tiện cho trẻ em nhỏ tuổi, cũng có viên hàm lượng thấp dùng cho trẻ lớn hơn. Không dùng thuốc này cho trẻ em dưới 2 tuổi (vì sợ gây suy giảm hô hấp).
Thuốc này ít gây tác dụng phụ ở đường tiêu hóa, ít độc nhưng nếu dùng liều cao có thể gây ức chế thần kinh trung ương, gây suy hô hấp hay có hành vi kỳ quặc, có thể gặp hiện tượng mệt mỏi, chóng mặt, nhịp tim nhanh, buồn nôn, da đỏ bừng, nổi mày đay.
Không dùng thuốc ho kéo dài và phải theo dõi chặt chẽ biểu hiện của trẻ sau khi dùng thuốc.
|
Codein: Đây là thuốc có thể dùng nhưng cần phải hạn chế. Dùng khi bị ho khan gây mất ngủ nhẹ hoặc vừa, không có khả năng giảm ho với dạng ho nặng. Về giảm ho, không dùng thuốc này cho trẻ dưới 1 tuổi (vì sợ gây suy hô hấp). Tránh dùng trong trường hợp trẻ bị ho nhưng có nhiều đờm và có biểu hiện khó thở.
Codein có làm suy giảm hô hấp. Biểu hiện suy giảm hô hấp là giảm nhịp thở, có nhịp hô hấp kiểu Cheyne stockes, xanh tím, lơ mơ, dẫn đến tình trạng đờ đẫn hay hôn mê, mềm cơ, da lạnh và ẩm, đôi khi mạch chậm và hạ huyết áp, trường hợp nặng có thể trụy mạch, ngừng tim, ngừng thở dẫn đến tử vong. Khi dùng mà thấy có các biểu hiện này thì ngừng dùng ngay và khẩn trương đưa trẻ đến nơi cấp cứu.
Thuốc cảm OTC: Đây là những thuốc có thể dùng nhưng cần phải cân nhắc. Trên thị trường có loại thuốc phối hợp thuốc hạ sốt, thuốc giảm ho và các thuốc chống dị ứng với thuốc làm giãn cơ, chống co thắt phế quản, chống sổ mũi, nghẹt mũi... bào chế ra dạng thuốc kép gọi là thuốc cảm OTC (thuốc cảm bán không cần đơn). Khi dùng những thuốc này thì sẽ giảm các triệu chứng trên nên người bệnh ưa thích.
Tuy nhiên, phải cân nhắc thật kỹ khi dùng cho trẻ em vì hai lý do: Thứ nhất, các thuốc kết hợp này gây độc: pseudoephedrin, phenylephrin làm tăng huyết áp, tăng nhịp tim, propylpropanolamin ngoài việc gây độc còn có thể gây xuất huyết não màng não (nhiều nước đã cấm dùng). Thứ hai, ngoài loại dùng cho trẻ em còn có dạng cho người lớn trong đó hàm lượng các chất có tính độc cao, nếu dùng nhầm sẽ rất nguy hiểm .Vì vậy dù là thuốc thuộc diện OTC nhưng khi thật cần thiết mới dùng và nên hỏi kỹ thầy thuốc trước khi dùng.
Thuốc cấm dùng cho trẻ dưới 2 tuổi
Dẫn chất phenothiazin thường chế thành biệt dược đơn (siro phenergan, siro alimimerazin) dùng để chữa ho do dị ứng. Dẫn chất phenothiazin có tác dụng phụ rất nguy hiểm là làm suy hô hấp, ngừng thở, tử vong đột ngột cho trẻ em lúc ngủ nên không được dùng cho trẻ em dưới 2 tuổi. Trẻ trên 2 tuổi khi cần thiết có thể dùng nhưng chỉ dùng liều thấp nhất có hiệu lực trong thời gian ngắn.
DS. Bùi Văn Uy
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)